Những Các Anh Hùng Dân Tộc Việt Nam

Những Các Anh Hùng Dân Tộc Việt Nam

I. QUÂN ĐỘI NHÂN DÂN VIỆT NAM - 80 NĂM XÂY DỰNG, CHIẾN ĐẤU, CHIẾN THẮNG VÀ TRƯỞNG THÀNH

I. QUÂN ĐỘI NHÂN DÂN VIỆT NAM - 80 NĂM XÂY DỰNG, CHIẾN ĐẤU, CHIẾN THẮNG VÀ TRƯỞNG THÀNH

Dân số và cư trú của dân tộc Cờ Lao

Theo số liệu từ Điều tra dân số và nhà ở các dân tộc thiểu số năm 2019, dân số của dân tộc Cờ Lao ở Việt Nam là khoảng 4.003 người. Trong đó, nam giới chiếm 2.005 người và nữ giới là 1.998 người. Họ chủ yếu sinh sống tại hai huyện Đồng Văn và Hoàng Su Phì thuộc tỉnh Hà Giang, miền Bắc Việt Nam.

Ở Hà Giang, người Cờ Lao chủ yếu sinh sống tại các địa phương như xã Bạch Đích, Phú Lũng thuộc huyện Yên Minh, và các xã Sính Lủng, Phố Là thuộc huyện Đồng Văn, cùng xã Túng Sán thuộc huyện Hoàng Su Phì. Tại xã Túng Sán, Hoàng Su Phì, họ chiếm tỷ lệ đông đảo (trên 40%).

Người Cờ Lao tại Việt Nam thường theo đạo đa thần và tôn giáo truyền thống của họ thường xoay quanh việc thờ cúng tổ tiên. Họ có nền văn hóa độc đáo và phong phú, với nhiều truyền thống văn hóa và tập quán truyền thống đặc biệt, nhưng cũng đang đối mặt với nhiều thách thức và khó khăn trong việc bảo tồn và phát triển văn hóa truyền thống của mình.

Đặc điểm kinh tế dân tộc Cờ Lao

Nhóm người Cờ Lao xanh và Cờ Lao trắng sống chủ yếu ở hai huyện Đồng Văn và Mèo Vạc, và hoạt động kinh tế chủ yếu của họ là nương định canh và gieo trồng ngô trong các hốc núi đá. Trong khi đó, nhóm người Cờ Lao đỏ sống chủ yếu ở hai huyện Hoàng Su Phì và Yên Minh, vùng đất có nhiều núi đất và thung lũng, và hoạt động kinh tế của họ chủ yếu là làm ruộng nước và nương núi đất, trồng lúa là chính. Ngoài các loại cây lương thực chính như lúa, người Cờ Lao còn trồng nhiều loại đậu, rau xanh và các loại cây trồng khác, đó là hoạt động kinh tế không thể thiếu đối với mọi gia đình.

Chăn nuôi là hoạt động cung cấp sức kéo và phân bón cho sản xuất, thực phẩm cho các hoạt động liên quan đến ma chay, cưới xin và lễ tết. Ngoài chăn nuôi, thủ công gia đình cũng là một nghề phụ quan trọng trong đời sống của người Cờ Lao. Nghề mộc là hoạt động thủ công gia đình phát triển khá lớn trong cộng đồng này. Nghề nấu rượu ngô không phải là nghề truyền thống nổi trội của người Cờ Lao, tuy nhiên, rượu ngô của đồng bào đã trở thành một mặt hàng được nhiều người biết đến.

Hái lượm, săn bắn và đánh bắt thủy sản là những hoạt động bổ trợ cho hoạt động nông nghiệp của đồng bào Cờ Lao, và chúng không còn đóng vai trò chủ yếu như trước đây.

Đặc điểm văn hóa, phong tục dân tộc Cờ Lao

Thức ăn của người Cờ Lao chủ yếu được chế biến từ các sản phẩm trồng trọt và chăn nuôi. Thực phẩm chế biến từ các sản phẩm chăn nuôi bao gồm gà, lợn và dê.

Đặc điểm kinh tế dân tộc Thái Việt Nam

Người Thái có truyền thống nông nghiệp phong phú và có nhiều kinh nghiệm trong việc đào mương, dựng đập, bắc máng lấy nước để làm ruộng. Lúa nước là nguồn lương thực chính của họ, đặc biệt là lúa nếp. Ngoài ra, họ cũng trồng nhiều loại cây khác như hoa màu, trái cây, rau củ… để đa dạng hoá nguồn thực phẩm.

Ngoài nông nghiệp, từng gia đình người Thái còn chăn nuôi gia súc, gia cầm, đan lát, dệt vải, làm đồ gốm… Sản phẩm nổi tiếng của họ là vải thổ cẩm với những hoa văn độc đáo, màu sắc rực rỡ và bền đẹp. Điều này thể hiện khả năng thủ công của người Thái, đồng thời đóng góp vào sự đa dạng hóa văn hóa và kinh tế của địa phương.

Giáo dục và ngôn ngữ dân tộc Cờ Lao

Đối với giáo dục, theo số liệu của Điều tra 53 dân tộc thiểu số năm 2019, tỷ lệ người từ 15 tuổi trở lên biết đọc, biết viết chữ phổ thông chiếm 58,2%. Tỷ lệ đi học chung của trẻ em ở cấp tiểu học chiếm 103,4%. Tỷ lệ đi học chung của trẻ em ở cấp trung học cơ sở là 83,1%, tỷ lệ đi học chung của trẻ em ở cấp trung học phổ thông là 37,4%. Tỷ lệ trẻ em ngoài trường là 17,6%.

Ngôn ngữ của người Cờ Lao thuộc nhóm ngôn ngữ Ka Đai, cùng nhóm với tiếng La Ha, La Chí, Pu Péo (ngữ hệ Thái – Ka Đai). Trước đây, các nhóm địa phương có phương ngữ khác nhau, nhưng hiện nay đa số người Cờ Lao đỏ, Cờ Lao xanh không còn nói được tiếng mẹ đẻ của mình nữa. Tuỳ theo quá trình tiếp xúc, cộng đồng họ quen sử dụng tiếng Quan họa, tiếng Nùng hay tiếng Pu Péo, Hmong.

Giới thiệu dân tộc Thái Việt Nam

Người Thái có cội nguồn ở vùng Đông Nam Á lục địa, tổ tiên xa xưa của người Thái có mặt ở Việt Nam từ rất sớm. Người Thái ở Việt Nam được chia thành nhiều nhóm địa phương và có nguồn gốc cũng như sự có mặt ở Việt Nam không hoàn toàn giống nhau. Theo các nhà dân tộc học, người Thái ở Việt Nam có nhiều tộc người khác nhau, nhưng chủ yếu là hai nhóm chính: Thái Trắng và Thái Đen.

Người Thái ở Việt Nam thường gọi là Tay/Tày/Thay/Thày tùy thuộc vào cách phát âm của từng khu vực. Các nhóm, ngành lớn của người Thái tại Việt Nam bao gồm: Tay Đón (Thái Trắng), Tay Đăm (Thái Đen), Tay Đèng (Thái Đỏ) và Tay Dọ (Thái Yo) cùng một số nhóm khác nhỏ hơn. Họ đã có mặt ở miền Tây Bắc Việt Nam trên 1200 năm, là hậu duệ của những người Thái đã di cư từ vùng đất thuộc tỉnh Vân Nam, Trung Quốc.

Trải qua chiến tranh ác liệt, Nhân dân ta càng thêm trân trọng giá trị của độc lập, tự do

PV: Khi vận nước lâm nguy, lời thề độc lập chính là tiếng nói hiệu triệu toàn thể dân tộc Việt Nam đứng lên đánh đuổi quân xâm lược, dẫu phải hi sinh, chúng ta cũng quyết giành cho được hòa bình, độc lập. Và điều này được minh chứng rõ nét, sinh động trong cuộc đương đấu với đế quốc Mỹ, thưa Tiến sĩ Nguyễn Thị Liên?

TS Nguyễn Thị Liên: Ngày 17/7/1966, Đài Tiếng nói Việt Nam truyền đi Lời kêu gọi chống Mỹ cứu nước của Chủ tịch Hồ Chí Minh gửi đến đồng bào, chiến sĩ cả nước. Trong lời kêu gọi lịch sử ấy, có câu nói nổi tiếng bất hủ và đã trở thành chân lý của mọi thời đại: “Không có gì quý hơn độc lập tự do”. Lời kêu gọi có ý nghĩa như một cuộc vận động lớn, để toàn Đảng, toàn quân, toàn dân tộc thống nhất ý chí, thống nhất niềm tin, củng cố ý chí để đi vào giai đoạn quyết liệt nhất của cuộc kháng chiến chống Mỹ cứu nước.

Trải qua chiến tranh ác liệt, Nhân dân ta càng thêm trân trọng những giá trị của độc lập và tự do. Đất nước Việt Nam khi ấy nhỏ bé về địa lý, kiệt quệ về tài chính bởi chính sách vơ vét, bóc lột của chủ nghĩa thực dân. Nhưng nhờ sức mạnh tổng hợp của toàn dân đánh giặc, khó khăn tưởng chừng không thể nào khắc phục được. Chúng ta đã vượt qua.

PV: Thưa tiến sĩ, từ tinh thần quật khởi của dân tộc ta trong những ngày đầu lập nước Việt Nam Dân chủ Cộng hòa, bà suy nghĩ thế nào về sức mạnh của tinh thần yêu nước Việt Nam trong suốt hành trình đấu tranh đánh đuổi quân xâm lược, bảo vệ núi sông, bờ cõi?

TS Nguyễn Thị Liên: Lịch sử dân tộc Việt Nam là lịch sử của một dân tộc kiên cường, bền bỉ trong công cuộc đấu tranh dựng nước và giữ nước. Từ cuộc khởi nghĩa của Hai Bà Trưng chống nhà Hán đô hộ, đến chiến thắng Đường, Tống, Nguyên, Minh, đánh bại 200.000 quân xâm lược nhà Thanh cuối thế kỷ XVIII, đã chứng minh hùng hồn tinh thần yêu nước, quật khởi của nhân dân ta.

Những chiến công hiển hách ấy không chỉ nói lên tinh thần yêu nước, sự đồng tâm nhất trí giữ nước và dựng nước của ông cha ta mà còn khẳng định sức mạnh vô địch của nhân dân. Nhân dân là người làm nên lịch sử, sức dân là vô địch. Chính những người dân chân lấm, tay bùn, biết bao đời lao động cần cù, hai sương một nắng, đã dời núi, lấp biển dựng nên hình hài Tổ quốc. Và đã biết bao lần mang xương máu của mình tạo nên bức tường thành vững chắc để giữ gìn, bảo vệ quê hương, đất nước tươi đẹp của chúng ta.