Sau hàng ngàn năm phát triển, con số khoảng 10 triệu người thậm chí còn ít hơn một số dân tộc thiểu số khác đến vài lần. Vậy tại sao với sự thông minh và tài năng của mình, dân số của người Do Thái lại không tăng lên?
Sau hàng ngàn năm phát triển, con số khoảng 10 triệu người thậm chí còn ít hơn một số dân tộc thiểu số khác đến vài lần. Vậy tại sao với sự thông minh và tài năng của mình, dân số của người Do Thái lại không tăng lên?
Nếu bạn yêu thích ngành Truyền thông quốc tế và đang băn khoăn chưa biết nên học ở đâu uy tín chất lượng thì có thể cân nhắc trường Đại học VinUni. Chương trình Cử nhân Truyền thông Đa phương tiện tại Viện Khoa học và Giáo dục Khai phóng, Đại học VinUni mang lại cho sinh viên một trải nghiệm học tập chất lượng toàn diện, kết hợp giữa lý thuyết và thực hành, giúp phát triển kỹ năng và kiến thức cần thiết để thành công trong lĩnh vực Truyền thông.
Ngành Truyền thông Đa phương tiện tại VinUni đào tạo hoàn toàn bằng Tiếng Anh, với sự tích hợp của các chuẩn mực quốc tế trong lĩnh vực này. Bằng cách đưa sinh viên vào môi trường học tập sử dụng tiếng Anh là ngôn ngữ chính, VinUni tạo ra một nền tảng để sinh viên phát triển khả năng giao tiếp thành thạo, cả trong việc diễn đạt lời nói và viết, qua nhiều bối cảnh văn hóa khác nhau.
VinUni đào tạo nguồn nhân lực chuyên môn chất lượng cao, có kỹ năng giao tiếp đa văn hóa.
Bài viết trên đây, chúng tôi đã giúp bạn giải đáp câu hỏi ngành Truyền thông quốc tế là gì, qua đó đánh giá tiềm năng của ngành. Hy vọng bài viết đã giúp ích cho bạn.
PV: Trong Bản Tuyên ngôn độc lập mà Chủ tịch Hồ Chí Minh đã đọc tại Quảng trường Ba Đình vào ngày 2/9/1945, Người đã khẳng định đanh thép rằng“Toàn thể dân tộc Việt Nam quyết đem tất cả tinh thần và lực lượng, tính mạng và của cải để giữ vững quyền tự do, độc lập ấy”. Theo bà, lời khẳng định của Chủ tịch Hồ Chí Minh có ý nghĩa như thế nào trong thời điểm lúc bấy giờ?
TS Nguyễn Thị Liên: Có thể khẳng định, độc lập dân tộc, đó là một giá trị thiêng liêng, được bảo vệ và giữ gìn bởi máu xương, sức lực của biết bao thế hệ người Việt Nam. Trước quốc dân đồng bào, vào ngày 2/9/1945, Chủ tịch Hồ Chí Minh nhấn mạnh “Toàn thể dân tộc Việt Nam quyết đem tất cả tinh thần và lực lượng, tính mệnh và của cải để giữ vững quyền tự do, độc lập ấy”. Tuyên ngôn độc lập khẳng định khát vọng tự do, độc lập và ý chí quyết tâm bảo vệ những khát vọng đó của dân tộc Việt Nam.
Để làm nên Cách mạng Tháng Tám, giành độc lập cho dân tộc, dưới sự lãnh đạo của Đảng, nhân dân ta đã trải qua chặng đường đấu tranh đầy gian khổ, hy sinh. Hàng ngàn chiến sĩ bị địch bắt, khủng bố, tra tấn dã man. Trong thời kỳ này, chúng ta bị bắt không còn một đồng chí Ủy viên Trung ương nào. Đó là sự thiệt hại mất mát to lớn của cách mạng Việt Nam. Vượt lên những tổn thất ấy, Đảng Cộng sản Việt Nam cùng sự đồng thuận của toàn thể dân tộc Việt Nam đã đưa cuộc cách mạng tiến tới Tổng khởi nghĩa Tháng Tám giành chính quyền.
PV: Giành chính quyền đã khó, giữ được chính quyền lại càng khó khăn hơn. Lời khẳng định của Bác cũng là lời nhắc nhở để toàn dân tộc chúng ta chuẩn bị cho những ngày tháng cam go, ác liệt đang chờ phía trước?
TS Nguyễn Thị Liên: Vâng, câu nói của Bác cũng là động lực, nhắc nhở toàn dân tộc sẵn sàng chuẩn bị cho những thử thách phía trước. Bởi vì, sau Cách mạng Tháng Tám, đất nước trải qua vô vàn khó khăn. Bộ trưởng Bộ Tài chính Lê Văn Hiến nhận định, Chính phủ cách mạng lúc đó là một Chính phủ “không tiền”; về văn hóa - xã hội với hơn 90% dân số mù chữ. Về đối ngoại, chúng ta không được nước nào công nhận nền độc lập, chính quyền non trẻ; quân đồng minh kéo vào Đông Dương cùng với 20 vạn quân Tưởng, thù trong, giặc ngoài…tình thế đất nước khi ấy như ngàn cân treo sợi tóc. Như vậy, vượt qua những khó khăn, thử thách, nhân dân Việt Nam không có mong muốn gì hơn là nền hòa bình, độc lập thực sự, toàn vẹn lãnh thổ, “Nước Việt Nam là một, dân tộc Việt Nam là một”, Nhân dân Việt Nam được tự do, hạnh phúc.
PV: Sau khi nước Việt Nam Dân chủ Cộng hoà ra đời, chúng ta đã ở vào tình thế “ngàn cân treo sợi tóc”, chúng ta đã phải đương đầu với thực dân Pháp quay trở lại xâm lược lần thứ hai. Vậy là chặng hành trình gìn giữ, bảo vệ nền độc lập của dân tộc Việt Nam đã bắt đầu phải không, thưa bà?
TS Nguyễn Thị Liên: Nước Việt Nam Dân chủ Cộng hòa vừa mới ra đời đã phải đương đầu với muôn vàn khó khăn, thử thách. Ngày 23/9/1945, thực dân Pháp nổ súng xâm lược nước ta lần thứ 2. Sau rất nhiều nỗ lực ngoại giao, thể hiện thiện chí hòa bình của dân tộc nhưng vẫn bị Pháp khước từ và chúng dã tâm quyết cướp nước ta lần nữa. Trước tình hình hết sức căng thẳng và gấp rút, Hồ Chủ tịch đã thay mặt Trung ương Đảng, thay mặt Chính phủ viết Lời kêu gọi toàn quốc kháng chiến.
Lời kêu gọi toàn quốc kháng chiến khẳng định khát vọng hòa bình, ý chí và quyết tâm sắt đá bảo vệ nền độc lập, tự do của dân tộc. Trong dòng chảy liên tục của lịch sử dựng nước và giữ nước, mong muốn hòa bình để dựng xây đất nước là khát vọng cháy bỏng của cả dân tộc Việt Nam. Khát vọng hòa bình của nhân dân ta sẽ không bao giờ có được khi kẻ thù có dã tâm xâm lược nước ta. Cho nên, Người khẳng định rõ ý chí, quyết tâm sắt đá của toàn Đảng, toàn dân và toàn quân ta trong bảo vệ nền độc lập, tự do - thành quả của Cách mạng Tháng Tám vừa giành được.
PV: Khi vận nước lâm nguy, lời thề độc lập chính là tiếng nói hiệu triệu toàn thể dân tộc Việt Nam đứng lên đánh đuổi quân xâm lược, dẫu phải hi sinh, chúng ta cũng quyết giành cho được hòa bình, độc lập. Và điều này được minh chứng rõ nét, sinh động trong cuộc đương đấu với đế quốc Mỹ, thưa Tiến sĩ Nguyễn Thị Liên?
TS Nguyễn Thị Liên: Ngày 17/7/1966, Đài Tiếng nói Việt Nam truyền đi Lời kêu gọi chống Mỹ cứu nước của Chủ tịch Hồ Chí Minh gửi đến đồng bào, chiến sĩ cả nước. Trong lời kêu gọi lịch sử ấy, có câu nói nổi tiếng bất hủ và đã trở thành chân lý của mọi thời đại: “Không có gì quý hơn độc lập tự do”. Lời kêu gọi có ý nghĩa như một cuộc vận động lớn, để toàn Đảng, toàn quân, toàn dân tộc thống nhất ý chí, thống nhất niềm tin, củng cố ý chí để đi vào giai đoạn quyết liệt nhất của cuộc kháng chiến chống Mỹ cứu nước.
Trải qua chiến tranh ác liệt, Nhân dân ta càng thêm trân trọng những giá trị của độc lập và tự do. Đất nước Việt Nam khi ấy nhỏ bé về địa lý, kiệt quệ về tài chính bởi chính sách vơ vét, bóc lột của chủ nghĩa thực dân. Nhưng nhờ sức mạnh tổng hợp của toàn dân đánh giặc, khó khăn tưởng chừng không thể nào khắc phục được. Chúng ta đã vượt qua.
PV: Thưa tiến sĩ, từ tinh thần quật khởi của dân tộc ta trong những ngày đầu lập nước Việt Nam Dân chủ Cộng hòa, bà suy nghĩ thế nào về sức mạnh của tinh thần yêu nước Việt Nam trong suốt hành trình đấu tranh đánh đuổi quân xâm lược, bảo vệ núi sông, bờ cõi?
TS Nguyễn Thị Liên: Lịch sử dân tộc Việt Nam là lịch sử của một dân tộc kiên cường, bền bỉ trong công cuộc đấu tranh dựng nước và giữ nước. Từ cuộc khởi nghĩa của Hai Bà Trưng chống nhà Hán đô hộ, đến chiến thắng Đường, Tống, Nguyên, Minh, đánh bại 200.000 quân xâm lược nhà Thanh cuối thế kỷ XVIII, đã chứng minh hùng hồn tinh thần yêu nước, quật khởi của nhân dân ta.
Những chiến công hiển hách ấy không chỉ nói lên tinh thần yêu nước, sự đồng tâm nhất trí giữ nước và dựng nước của ông cha ta mà còn khẳng định sức mạnh vô địch của nhân dân. Nhân dân là người làm nên lịch sử, sức dân là vô địch. Chính những người dân chân lấm, tay bùn, biết bao đời lao động cần cù, hai sương một nắng, đã dời núi, lấp biển dựng nên hình hài Tổ quốc. Và đã biết bao lần mang xương máu của mình tạo nên bức tường thành vững chắc để giữ gìn, bảo vệ quê hương, đất nước tươi đẹp của chúng ta.