Để được hỗ trợ thủ tục xin visa cho người Trung Quốc từ Việt Nam đi Lào nhanh, có visa trong thời gian ngắn, săn vé máy bay giá rẻ từ Việt Nam sang Lào phù hợp với nhu cầu bản thân, bạn có thể gọi hỗ trợ số 0917 163 993 – 0904 895 228.
Để được hỗ trợ thủ tục xin visa cho người Trung Quốc từ Việt Nam đi Lào nhanh, có visa trong thời gian ngắn, săn vé máy bay giá rẻ từ Việt Nam sang Lào phù hợp với nhu cầu bản thân, bạn có thể gọi hỗ trợ số 0917 163 993 – 0904 895 228.
Người Trung Quốc cũng có thể nhập cảnh vào Lào qua bất cứ cửa khẩu, sân bay quốc tế, trạm kiểm soát khác trên toàn lãnh thổ Lào mở.
Với thị thực Lào còn hiệu lực sử dụng, người Trung Quốc có thể nhập cảnh qua bất cứ sân bay quốc tế theo đường hàng không hoặc trạm kiểm soát đường bộ biên giới được liệt kê trong danh sách dưới đây.
Nếu đến Lào với mục đích công tác, người Trung Quốc cần bổ sung thêm tài liệu, chi tiết tham khảo trong bài: “Visa đi Lào công tác là gì? quy định nhập cảnh để làm việc“.
Trong số đó quan trọng nhất là Thư mời từ công ty đối tác bên Lào và thư cử đi công tác từ doanh nghiệp/tổ chức ở Việt Nam. Tất cả các tài liệu bằng tiếng Việt hoặc tiếng Trung cần được dịch thuật công chứng sang tiếng Anh trước khi nộp. Sau đó tập hợp thành bộ hồ sơ và nộp vào Đại sứ quán/ Lãnh sự quán Lào vào các ngày làm việc từ thứ 2 đến thứ 6, (trừ lễ, tết).
Nếu muốn xin visa điện tử Lào thì các tài liệu chuẩn bị như danh sách trên cần được scan và lưu dưới dạng file Pdf hoặc Jpeg để tải lên nộp cùng đơn đăng ký. Ngoài ra cần chuẩn bị thêm 01 thẻ thanh toán quốc tế, email đang sử dụng.
Với evisa Lào, người Trung Quốc có thể lưu trú ở quốc gia này trong khoảng 30 ngày, không cho phép gia hạn, chỉ được vào 1 lần trong thời hạn hiệu lực.
Nếu có thị thực điện tử Lào, người Trung Quốc chỉ có thể nhập cảnh bằng đường hàng không đến một trong các sân bay quốc tế sau:
Bộ Công thương vừa có tờ trình đề nghị Chính phủ ban hành kế hoạch thực hiện Quy hoạch phát triển điện lực quốc gia thời kỳ 2021-2030, tầm nhìn đến năm 2050 (Quy hoạch điện VIII).
Ở tờ trình này, Bộ Công thương đưa ra giải pháp cụ thể đảm bảo cung ứng điện trong giai đoạn tới. Theo đó, để đáp ứng phụ tải theo dự báo của Quy hoạch điện VIII, giai đoạn 2023-2025 cần đưa vào vận hành khoảng 19.000 MW nguồn điện mới, trong đó các nguồn chính gồm 6.100 MW nhiệt điện (than, khí), 4.300 MW thủy điện, 4.400 MW điện gió trên bờ và khoảng 1.900 MW điện nhập khẩu từ Lào.
Số liệu từ các địa phương cho thấy đến năm 2025 sẽ đưa vào vận hành khoảng 21.537MW các nguồn điện. Trong đó, có 4 dự án nhiệt điện,176 dự án thủy điện, 165 dự án điện gió trên bờ.
"Nếu các dự án nguồn điện thực hiện theo dự kiến như trên thì nguồn cung điện sẽ đáp ứng. Tuy nhiên, vẫn còn tiềm ẩn nhiều rủi ro chậm tiến độ, nhất là đối với nguồn nhiệt điện và điện gió trên bờ", Bộ Công thương đánh giá. Do đó, ngoài biện pháp tăng khả năng truyền tải điện từ miền Trung ra miền Bắc, Bộ Công thương tính toán tăng nhập khẩu điện từ các nước trong khu vực như Lào và Trung Quốc.
Trao đổi với Báo Giao thông, lãnh đạo Cục Điện lực và Năng lượng tái tạo (Bộ Công thương) cho biết hiện Việt Nam nhập khẩu điện của Trung Quốc qua tuyến đường dây 220 kV từ phía Lào Cai, Hà Giang, mỗi năm khoảng 2 tỷ kWh. Dự kiến, đến năm 2025 có thể đàm phán nâng cao sản lượng lên 3,5 tỷ kWh. Khi có điều kiện thuận lợi, xem xét mua điện qua hệ thống Back-To-Back với quy mô công suất khoảng 2.000 MW, sản lượng khoảng 9 tỷ kWh/năm.
Còn nhập khẩu điện từ Lào, những năm qua đang mua điện ngưỡng công suất 3.000-5.000 MW. Dự kiến trước năm 2025 sẽ nhập khẩu cụm nguồn điện Nậm Ou. Tới năm 2030, dự kiến nhập khẩu khoảng 5.000 MW, có thể tăng lên 8.000 MW khi có điều kiện thuận lợi với giá điện hợp lý để tận dụng tiềm năng nguồn điện xuất khẩu của nước bạn.
Theo tài liệu của Báo Giao thông, giá điện nhập khẩu đang thấp hơn mua trong nước. Cụ thể, giá mua điện từ Trung Quốc khoảng 6,5 cent/kWh (gần 1.540 đồng/kWh); còn Lào là 6,9 cent (tương đương 1.632 đồng/kWh).
Trong khi theo số liệu từ EVN, giá mua điện bình quân 3 tháng đầu năm cho mỗi kWh điện là 1.128 đồng với thủy điện, 1.428 đồng với tuabin khí, 2.046 đồng với điện mặt trời, 2.086 đồng với điện gió, 2.100 đồng với điện than. Như vậy, giá mua điện từ Lào, Trung Quốc thấp hơn một số nguồn điện trong nước.
Chuyên gia năng lượng Đào Nhật Đình cho hay nhập khẩu điện là giải pháp để tránh thiếu điện trong ngắn hạn. Khi nhập khẩu, điện từ Trung Quốc cấp thẳng cho các tỉnh miền núi phía Bắc, không hòa đồng bộ với lưới điện Việt Nam. Lưới điện và các trạm biến áp các tỉnh đó được thiết kế để sẵn sàng chuyển từ hệ thống điện Việt Nam sang Trung Quốc và ngược lại chỉ trong vài giờ. Còn điện từ Lào được hòa thẳng vào lưới điện Việt Nam và truyền tải ra Bắc, hay vào Nam tùy theo nhu cầu của hệ thống điện.
Những năm qua, ở khu vực phía Nam, Việt Nam đang xuất khẩu điện sang Campuchia qua các đường dây trung áp dọc biên giới Việt Nam - Campuchia và đường dây cao áp Châu Đốc - Tà Keo. Sản lượng điện xuất khẩu sang Campuchia theo hợp đồng khung là khoảng 1 tỷ kWh/năm. Nhưng gần đây, nhu cầu mua điện của Campuchia có xu hướng giảm.
Ngoài Campuchia, tại tờ trình này, Bộ Công thương nêu chủ trương xuất khẩu điện với quy mô 5.000-10.000MW (tương ứng khoảng 3-6% tổng công suất các nhà máy điện phục vụ nhu cầu trong nước theo Quy hoạch Điện VIII) và hình thành hệ thống lưới điện cao áp/siêu cao áp kết nối với quốc gia khác Những vị trí có tiềm năng xuất khẩu điện ra nước ngoài là khu vực miền Trung và miền Nam.
Đến nay, Bộ Công thương đã nhận được một số đề xuất làm điện gió ngoài khơi để xuất khẩu của một số tỉnh như Cà Mau, Trà Vinh và liên danh Sembcorp Utilities (SCU) - Dịch vụ kỹ thuật Dầu khí Việt Nam (PTSC).
Nhiều tỉnh kiến nghị làm điện gió ngoài khơi để xuất khẩu.
Tuy nhiên, theo ông Bùi Văn Thịnh, Chủ tịch Hiệp hội Điện gió và mặt trời Bình Thuận, vướng mắc lớn nhất để phát triển điện sạch là cơ chế chính sách về đầu tư, triển khai dự án và cơ chế giá chưa hoàn thiện. Hội Dầu khí Việt Nam cũng cho rằng, hiện cơ chế, chính sách chưa rõ ràng để phát triển các nguồn điện sạch. "Riêng điện gió ngoài khơi, ngay từ khâu đầu tiên là khảo sát cũng chưa có cơ chế thì mục tiêu đến năm 2030 sẽ khó thực hiện được nếu không quyết liệt", đại diện Hội Dầu khí Việt Nam chia sẻ.
Trong khi đó, các dự án điện gió ngoài khơi có tính chất phức tạp, vốn đầu tư lớn, đặc biệt là yếu tố giá nên cần có các cơ chế chính sách đủ hấp dẫn, tạo thuận lợi cho nhà đầu tư rót vốn vào lĩnh vực này.
Để giải quyết những vấn đề này, Bộ Công thương đã đề nghị Chính phủ nhiều nội dung trong đó có xin chủ trương từ Bộ chính trị về việc xuất khẩu điện quy mô lớn và giao cho các bộ, ngành xây dựng hệ thống văn bản pháp luật để thể chế hóa chủ trương, làm cơ sở để triển khai xây dựng.
Ngoài ra, Bộ Công thương đề xuất giao Bộ Kế hoạch và Đầu tư, Bộ Tài nguyên và Môi trường có ý kiến về thẩm quyền cấp chủ trương đầu tư, việc lựa chọn các nhà đầu tư các dự án trên biển và nghiên cứu bổ sung quy định thẩm quyền quyết định chủ trương đầu tư dự án điện gió ngoài khơi, cáp ngầm vượt biển đi qua khu vực lãnh hải, đặc quyền kinh tế biển của nhiều nước.
Từ năm 2005, Việt Nam đã mua điện của Trung Quốc qua đường dây cao thế 110kV nối Lào Cai - Hà Khẩu. Sau đó là tuyến đường dây 220 kV Lào Cai - Hà Khẩu, Hà Giang - Malutang đi qua cửa khẩu Thanh Thủy và tuyến 110 kV Thâm Câu - Móng Cái. Sản lượng điện nhập khẩu từ Trung Quốc liên tục tăng do giai đoạn 2004-2010 khi Việt Nam rơi vào tình trạng thiếu điện, đạt đỉnh 5,6 tỷ kWh vào năm 2010, chiếm 5,6% tổng sản lượng điện trong nước.
Từ năm 2011, nhà máy Thủy điện Sơn La và nhiều nhà máy khác đi vào hoạt động nên miền Bắc đã đủ điện. Đường dây Thâm Câu - Móng Cái vẫn được duy trì, nhưng không nhập khẩu điện nữa vì phía Quảng Ninh đã sản xuất đủ điện và giá rẻ ngang, hoặc thấp hơn điện nhập khẩu.
Nguồn điện nhập khẩu qua cửa khẩu Lào Cai và Hà Giang vẫn có ưu thế vì giá điện tỉnh Vân Nam (Trung Quốc) rẻ do nguồn thủy điện dồi dào. Lượng điện nhập khẩu từ Trung Quốc giảm xuống còn 1,6-2,2 tỷ kWh/năm và duy trì ở mức đó.
Còn điện nhập khẩu từ Lào chủ yếu là thủy điện, thông qua thỏa thuận hợp tác liên Chính phủ năm 2016, với sản lượng điện khoảng 7 triệu kWh một ngày (chiếm 1-1,5% tổng sản lượng điện của Việt Nam).
Việc xây cầu đường bộ dài 420m nối xã Bản Vược, huyện Bát Xát, tỉnh Lào Cai với Bá Sái, tỉnh Vân Nam, Trung Quốc, dự kiến khởi công tháng 12/2023. Đây là một văn kiện được ký kết trong chuyến thăm Việt Nam của Tổng bí thư, Chủ tịch Trung Quốc Tập Cận Bình.
Đó là Hiệp định và Nghị định thư giữa Chính phủ hai nước về việc xây dựng và đơn giản hóa thủ tục xuất nhập cho nhân viên, phương tiện giao thông vận tải, thiết bị thi công và vật liệu xây dựng để cùng xây dựng cầu đường bộ qua sông Hồng.
Theo Hiệp định, cầu sẽ được xây dựng bằng bêtông cốt thép dự ứng lực theo dạng cầu dây văng tháp thấp. Cầu chia 6 nhịp, khổ 35,3m, có bốn làn xe cơ giới, mỗi làn 3,5m; hai làn xe thô sơ mỗi làn 4m; hai làn lề bộ hành mỗi làn 4,5m; dải phân cách giữa cầu 2,8m.
Cầu chính sẽ do hai bên cùng đầu tư xây dựng, trong đó mỗi bên tự thi công phần cầu chính, cầu dẫn và đường dẫn của bên mình. Phía Việt Nam thi công một nửa cầu chính gồm 50m nhịp chính và 60 nhịp biên, cầu dẫn dài 40m và đường vào cầu. Tổng chiều dài cầu bên phía Việt Nam là 165,1m.
Chính phủ hai nước thống nhất giao tỉnh Lào Cai và tỉnh Vân Nam thành lập Tổ công tác liên hợp xây dựng cầu đường bộ chịu trách nhiệm thỏa thuận và thống nhất tiêu chuẩn kỹ thuật, thiết kế cầu. Mỗi bên tự thiết kế công trình đường dẫn của bên mình. Công tác giám sát chất lượng công trình do hai bên cùng triển khai.
Theo đại diện tỉnh Lào Cai, Chính phủ hai nước cũng thống nhất đơn giản hóa thủ tục đối với người tham gia xây dựng, phương tiện giao thông vận tải, thiết bị thi công, vật liệu xây dựng xuất nhập biên giới Việt - Trung qua cửa khẩu quốc tế Lào Cai - Hà Khẩu trong thời gian xây dựng cầu. Các công việc liên quan đã được hai nước chuẩn bị từ nhiều tháng nay.
Khu vực xã Bản Vược, huyện Bát Xát nằm trong Khu kinh tế cửa khẩu Lào Cai đã được Chính phủ phê duyệt quy hoạch năm 2018. Việc xây dựng cầu đường bộ qua sông Hồng trên biên giới Việt Nam - Trung Quốc được kỳ vọng sẽ góp phần nâng cao hiệu quả hoạt động thương mại biên giới giữa hai nước.
Bách khoa toàn thư mở Wikipedia
Biên giới Lào-Trung Quốc là ranh giới quốc tế giữa Trung Quốc và Lào, kéo dài 475 km (295 m) từ cột mốc ba nước với Myanmar ở phía tây đến điểm ba với Việt Nam ở phía đông.[1]
Biên giới bắt đầu ở phía tây tại điểm giao nhau với Myanmar trên sông Mekong, tiến về phía nam qua một loạt các đường bộ không liên tục. Biên giới sau đó quay mạnh về phía đông và tiếp tục đi qua đất liền, trước khi quay mạnh về phía bắc, tiếp tục theo hướng đó trong một khoảng thời gian, trước khi quay lại hướng đông và kết thúc tại điểm ba phía Việt Nam tại đỉnh Khoan La San.[2]
Biên giới hai bên chủ yếu là nơi sinh sống của các nhóm dân tộc thiểu số.[3] Về mặt địa hình, nó là núi và rừng, với một số nông nghiệp hạn chế.[3] Về phía Lào, biên giới là các tỉnh Luang Namtha, Oudomxai và Phongsali, trong khi toàn bộ phía Trung Quốc thuộc tỉnh Vân Nam.
Về mặt lịch sử, khu vực biên giới này xa trung tâm của cả quyền lực Trung Quốc và Lào. Từ những năm 1860, Pháp bắt đầu thiết lập sự hiện diện trong khu vực, ban đầu là ở Campuchia và Việt Nam hiện đại, và thuộc địa Đông Dương thuộc Pháp được thành lập vào năm 1887. Pháp và Trung Quốc đã xác định biên giới giữa Bắc Kỳ (miền Bắc Việt Nam) và Trung Quốc vào năm 1887 sau chiến tranh Trung-Pháp. Lào sau đó được thêm vào thuộc địa vào năm 1893 sau chiến tranh Pháp-Xiêm, và một hiệp định biên giới phân định ranh giới Trung Quốc-Lào tại vị trí hiện tại của nó đã được ký kết vào ngày 20 tháng 6 năm 1895.[4][5] Sau đó nó được phân giới trên mặt đất bằng một loạt các cột mốc.
Lào giành được độc lập một phần từ Pháp vào năm 1949, vào khoảng thời gian Mao Trạch Đông thành lập Cộng hòa Nhân dân Trung Hoa sau khi đánh bại chính phủ dân quốc của Tưởng Giới Thạch trong nội chiến Trung Quốc. Do đó, sự thích nghi của Trung Quốc với các nguyên tắc của chủ nghĩa Stalin dưới hình thức chủ nghĩa Mao đã ảnh hưởng đến chính trị Lào, thúc đẩy yêu sách giành độc lập hoàn toàn khỏi Pháp, vốn được trao vào năm 1953.[6] Ranh giới sau đó trở thành một giữa hai quốc gia độc lập có chủ quyền. Biên giới hai nước được khảo sát lại và phân định vào tháng 4 năm 1992.[7]
Có hai cửa khẩu biên giới. Cửa khẩu chính được đặt tại Ma Hàm-Boten.[8] Một cửa khẩu thứ hai là tại Lantouy xa hơn về phía đông bắc (chỉ dành cho công dân Trung Quốc và Lào).[8] Có hai tuyến đường sắt đi qua biên giới là đường sắt Viêng Chăn – Boten và đường sắt Ngọc Khê – Ma Hàm kết nối Côn Minh với Viêng Chăn đã hoàn thành vào năm 2021.[9]
Người Trung Quốc có thể nhập cảnh vào Lào từ Việt Nam theo 1 trong hai loại thị thực Lào là evisa hoặc visa dán trên hộ chiếu. Để có evisa phải đăng ký trên hệ thống https://laoevisa.gov.la/info, visa thông thường có thể xin từ Đại sứ quán/Lãnh sự quán Lào ở Việt Nam.
Công dân Trung Quốc mang hộ chiếu phổ thông bắt buộc phải có visa hợp lệ mới có thể đến Lào.